I. NGÀY TRUYỀN THỐNG
Lịch sử Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng gắn liền với quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước vào Việt Nam của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng cứu nước của các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, mà sự kiện tạo ra bước ngoặt căn bản trong việc hình thành con đường cứu nước của dân tộc là khi Người đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin vào tháng 7/1920.
Những nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng tiền bối trong việc truyền bá hệ tư tưởng Mác xít và tổ chức huấn luyện, đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng… đã góp phần tích cực làm nên sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc, đó là thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã thành lập Ban Cổ động và Tuyên truyền - cơ quan tham mưu, chỉ đạo công tác tư tưởng của Đảng với nhiệm vụ trước mắt là tuyên truyền, giác ngộ quần chúng về chủ nghĩa Mác - Lênin, về Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và đường lối cách mạng của Đảng; cổ vũ động viên các tầng lớp Nhân dân giác ngộ cách mạng, hiểu Đảng, ủng hộ Đảng, tin và đi theo Đảng làm cách mạng.
Đặc biệt, ngày 01/8/1930, nhân dịp kỷ niệm ngày quốc tế đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình, Ban Cổ động và Tuyên truyền đã xuất bản tài liệu mang tên “Ngày quốc tế đỏ 01/8”. Đây là Tài liệu duy nhất và sớm nhất còn lưu giữ đến nay đề rõ “Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ấn hành”. Ngay sau khi phát hành, Tài liệu đã tạo được tiếng vang lớn, có sức cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng nước ta đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống áp bức, bóc lột, phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Từ đó, ngày 01/8 trở thành một mốc son lịch sử, đánh dấu một hoạt động rất có ý nghĩa đối với công tác tuyên giáo của Đảng.
Đánh giá cao sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị (khóa VIII) quyết định lấy ngày 01/8 hàng năm làm Ngày truyền thống công tác tư tưởng - văn hoá của Đảng. Năm 2007, sau khi hợp nhất Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) quyết định lấy ngày 01/8 hằng năm làm Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng.
Ngày 01/8/1930 được chọn là Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng nhưng trên thực tế, công tác tuyên giáo đã có từ trước khi thành lập Đảng, từ khi Nguyễn Ái Quốc bắt đầu các hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước vào Việt Nam.
II. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VẺ VANG CỦA NGÀNH TUYÊN GIÁO QUA 93NĂM (1930 - 2023)
1. Công tác tuyên giáo đã góp phần xây dựng, phát triển phong trào cách mạng, khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng, thực hiện thắng lợi cuộcCách Mạng tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay Nhân dân (giai đoạn 1930 - 1945)
a) Cao trào cách mạng (1930 - 1931) và Xô Viết Nghệ Tĩnh
Ngay sau khi thành lập, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc thành lập Đảng và đường lối cách mạng của Đảng; phổ biến rộng rãi Lời kêugọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; đề ra nhiều khẩu hiệu phản ánh nguyện vọng bức thiết của quần chúng lao động…; qua đó, đã làm dấy lên phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Hàng trăm cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, binh lính đã nổ ra quyết liệt trên nhiều tỉnh, thành phố, đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Công tác tuyên truyền trong Nhân dân được tiến hành công khai, sâu rộng, mà trọng tâm là tuyên truyền các chính sách của cách mạng: xoá nợ, giảm tô, chia lại công điền cho nông dân, thủ tiêu mọi thứ thuế, ban bố các quyền dân chủ, xét xử bọn phản động, bài trừ hủ tục, tổ chức học văn hoá... Nhiều tờ báo của Đảng và các địa phương ra đời; thơ ca cách mạng được lưu truyền; sách, báo, tài liệu cách mạng được phổ biến rộng rãi.
Trọng tâm của công tác tư tưởng thời kỳ này là công tác tuyên truyền và đào tạo cán bộ tuyên huấn. Công tác tư tưởng tập trung giác ngộ chính trị cho đảng viên và quần chúng, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, chuyển tư tưởng yêu nước của Nhân dân ta theo lập trường của giai cấp công nhân. Công tác tuyên truyền thường xuyên tố cáo tội ác của đế quốc và tay sai, chống lại các thủ đoạn lừa bịp của chúng, chống chủ nghĩa quốc gia cải lương; gắn chặt với cuộc đấu tranh hàng ngày của quần chúng đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, kết hợp các khẩu hiệu kinh tế với khẩu hiệu chính trị, thông qua đấu tranh mà nâng cao trình độ chính trị, rèn luyện đảng viên và quần chúng. Đối với cán bộ, đảng viên, công tác tư tưởng đã coi trọng việc giáo dục tính chất giai cấp của Đảng, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và phẩm chất đạo đức cách mạng, phân rõ ranh giới tư tưởng vô sản với các tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, giữ vững đường lối chính trị đúng đắn, quan điểm tư tưởng vô sản, chống các tư tưởng phi vô sản, đào tạo một đội ngũ cán bộ kiên cường, trung thành, tận tụy với cách mạng.
b) Đấu tranh chống khủng bố, khôi phục và phát triển phong trào cách mạng (giai đoạn 1932 - 1935)
Thời gian này, công tác tư tưởng đã được tiến hành kịp thời, sắc bén, bám sát thực tiễn, góp phần quan trọng ổn định tư tưởng cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin vào lý tưởng và thắng lợi của cách mạng, đẩy lùi các hiện tượng bi quan, dao động; nêu gương sáng về tinh thần hy sinh, bất khuất vì lợi ích cách mạng của những người cộng sản; góp phần quan trọng vào việc khôi phục và phát triển phong trào cách mạng trước sự khủng bố tàn bạo của địch, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh rộng lớn hơn về sau.
c) Cuộc vận động dân chủ chống phản động thuộc địa và tay sai, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình (giai đoạn 1936 - 1939)
Trong thời kỳ này, Trung ương Đảng chủ trương phát triển mạnh mẽ công tác báo chí, xuất bản, phát hành, huấn luyện, đào tạo cán bộ thông qua việc phát triển xuất bản sách báo công khai và chọn đảng viên có trình độ viết sách, viết bài; mỗi chi bộ lập“bình dân thư xã” mua và đọc sách, báo cách mạng; khuyến khích quần chúng mua và đọc sách, báo. Các cấp đảng bộ tái bản những tài liệu tuyên truyền của Trung ương, lập ra Ban huấn luyện chăm lo đào tạo cán bộ, bồi dưỡng chính trị cho đảng viên và quần chúng. Nhiều tác phẩm văn hóa hiện thực phê phán ra đời. Phong trào Truyền bá quốc ngữ phát triển sâu rộng. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, ta đã giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử Viện dân biểu Bắc kỳ và Viện dân biểu Trung kỳ (1937 - 1938).
Công tác tuyên giáo đã góp phần quan trọng tạo ra một cao trào cách mạng sôi nổi, đây được coi là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945; bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị, đó là: đấu tranh cho tự do dân chủ, cải thiện đời sống và hoà bình, chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh; tạo điều kiện cho đường lối, chủ trương của Đảng đi sâu vào quần chúng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn hoá dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ khí thế của phong trào cách mạng, tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ tiến bộ tham gia vận động cách mạng.
d) Cao trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám (giai đoạn 1939 - 1945)
Công tác tuyên giáo trong thời kỳ 1939 - 1945 đã gắn chặt và phục vụ thiết thực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ, khó khăn nhưng rất oanh liệt, vẻ vang của Đảng và Nhân dân ta. Thông qua công tác tuyên giáo góp phần phát huy cao độ lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết, anh hùng, bất khuất của dân tộc, nổi dậy tự giải phóng mình khỏi ách nô lệ của đế quốc và tay sai. Đó là kịp thời truyền đạt các nhận định và chủ trương của Đảng, đưa ra những khẩu hiệu sát hợp hướng dẫn tư tưởng và hành động của quần chúng; đấu tranh sắc bén với các tư tưởng tự ti, nô lệ, các khuynh hướng sai lầm, rụt rè, do dự hoặc nóng vội, manh động… với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, thậm chí táo bạo như: tuyên truyền xung phong, tuyên truyền vũ trang, biểu tình vũ trang; cổ vũ Nhân dân nổi dậy với khí thế mạnh mẽ áp đảo quân thù. Đó là góp phần bồi dưỡng, đào tạo hàng loạt cán bộ về chính trị, về kinh nghiệm tổ chức, phát động quần chúng, giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong cách mạng, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, quyết tâm đấu tranh cách mạng giành chính quyền về tay Nhân dân.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối độc lập tự chủ và đầy sáng tạo của cách mạng Việt Nam; đồng thời, cũng là thành tựu to lớn của công tác tuyên giáo trong việc tuyên truyền, vận động cách mạng, biến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng thành phong trào cách mạng của quần chúng trong quá trình đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, phong kiến.
2. Công tác tuyên giáo tham gia huy động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (giai đoạn 1945 - 1954)
a) Tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng xã hội mới (giai đoạn 1945-1946)
Sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chính quyền cách mạng mới ra đời gặp muôn vàn khó khăn. Nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó có ngành tuyên giáo, là đoàn kết toàn dân bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chống thù trong, giặc ngoài, góp phần đưa cách mạng tiến lên. Công tác tuyên giáo lúc này tập trung giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ độc lập, tự do; cổ vũ Nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngay sau khởi nghĩa, Bộ Tuyên truyền được thành lập, tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, báo chí của chế độ cũ. Các binh chủng chủ lực của công tác tuyên giáo lần lượt ra đời như Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã. Báo của Đảng, Mặt trận Việt Minh và nhiều tổ chức đoàn thể đã được phát hành công khai, rộng rãi. Công tác tuyên truyền tập trung tố cáo âm mưu và tội ác của thực dân Pháp ở miền Nam, khơi dậy ý chí quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến. Nhiều tỉnh thành trên cả nước diễn ra các cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng chống thực dân Pháp xâm lược. Đặc biệt, các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ có nhiều hình thức động viên phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo, vũ khí chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Hàng vạn thanh niên nô nức tham gia tòng quân, xung phong "Nam tiến". Tại Nam Bộ, công tác tuyên truyền được tiến hành sâu rộng nhằm nâng cao ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc, xác định tính chất cách mạng nước ta và hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chế độ mới. Công tác tuyên truyền tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho Nhân dân, chống nạn mù chữ. Khắp nơi có khẩu hiệu "Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, nhiều ca dao, hò vè được sáng tác để cổ vũ phong trào... Kết quả sau một năm, đã có 2 triệu người thoát nạn mù chữ.
Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”, chống các hủ tục, lạc hậu cũng được tuyên truyền sâu rộng. Nạn trộm cắp, cờ bạc, các hủ tục trong ma chay, cưới xin được xoá bỏ ở nhiều nơi, công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ cách mạng có tính quần chúng, nhất là ca hát, thể dục thể thao phát triển rộng rãi.
Tháng 0l/1946, Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, xây dựng Hiến pháp và lập Chính phủ chính thức. Công tác tuyên truyền, vận động bầu cử thực sự là một cuộc đấu tranh gay gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách ở miền Bắc, thực dân Pháp ở miền Nam. Với khẩu hiệu phổ biến mọi nơi là: “Tất cả cử tri tới thùng phiếu”; “Mỗi lá phiếu là một viên đạn diệt thù”, công tác tuyên giáo đã góp phần giúp cuộc Tổng tuyển cử thành công, thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom đạn của thực dân Pháp.
b) Động viên toàn dân kháng chiến, toàn quốc kháng chiến, thi đua yêu nước, giết giặc, lập công; đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới và đi tới thắng lợi quyết định (giai đoạn 1946 - 1954)
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ... đã có mặt trên các chiến trường nóng bỏng, phản ánh, động viên chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, sản xuất của chiến sĩ, đồng bào cả nước. Thời gian này, công tác khoa giáo tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, y tế, vận động trí thức. Công tác tuyên huấn đã động viên phong trào thi đua yêu nước, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Công tác tuyên truyền, cổ động tập trung nêu cao ý nghĩa chiến thắng Việt Bắc, phổ biến Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch trần âm mưu lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại của thực dân Pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực kháng chiến, kiến quốc.
Năm 1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Công tác tuyên giáo tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tích cực tiến công, ý chí quyết thắng, quyết tâm chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, khắc phục tư tưởng tiêu cực, ngại gian khổ hy sinh, uốn nắn tư tưởng chủ quan, khinh địch khi có thắng lợi, biểu dương các gương chiến đấu dũng cảm, hy sinh. Qua đó góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, giải phóng miền Bắc, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Điểm nổi bật của công tác tuyên truyền thời kỳ này là đã đi vào từng nhà, từng người; gắn tuyên truyền đường lối kháng chiến với cổ động hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể của kháng chiến từng thời kỳ, ở mọi lúc, mọi nơi…; thường xuyên biểu dương gương điển hình tiên tiến; mọi hoạt động văn học, nghệ thuật, giáo dục, báo chí… đều hướng vào phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ quần chúng đã phát triển mạnh mẽ; lĩnh vực khoa giáo được quan tâm và đẩy mạnh. Nhìn chung, trong kháng chiến chống Pháp, công tác tuyên giáo đã được triển khai mạnh mẽ, toàn diện, góp phần huy động sức mạnh của toàn dân tộc tham gia vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.
3. Công tác tuyên giáo đồng hành cùng Nhân dân cả nước tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (giai đoạn 1954 - 1975)
a) Quán triệt và thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở miền Nam (giai đoạn 1954 - 1960)
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7/1954) và Nghị quyết Bộ Chính trị về khôi phục kinh tế, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, công tác tuyên huấn đã giúp cấp ủy tổ chức lực lượng tuyên truyền sâu rộng các chính sách của Chính phủ đối với vùng mới giải phóng; vạch trần luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của địch, vận động đồng bào tham gia đấu tranh thực hiện tốt công tác tiếp quản. Biểu dương các phong trào “Nhường cơm sẻ áo”, “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”… tác động tích cực đến quần chúng. Tập trung quán triệt và giúp cấp ủy đảng triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, kế hoạch của Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường tổ chức học tập lý luận Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên; giáo dục giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho đảng viên; về hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội…
Giai đoạn này, công tác tuyên giáo đóng vai trò trọng yếu trong việc khơi dậy ý chí, tri thức và sức mạnh trong quần chúng, cổ vũ mạnh mẽ các phong trào thi đua như Gió Đại Phong, Sóng Duyên Hải, Tiếng trống Bắc Lý, Cờ Ba nhất… Đây cũng là giai đoạn công tác tuyên giáo đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trên lĩnh vực khoa giáo, như: giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân…
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc, công tác tuyên giáo đã động viên phong trào quần chúng ủng hộ, cổ vũ cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, phản đối Mỹ - Diệm vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ, đàn áp khủng bố đồng bào miền Nam, phá hoại hiệp thương, tổng tuyển cử, động viên phong trào đấu tranh chính trị, tiến tới Đồng khởi ở miền Nam.
b) Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (giai đoạn 1961 - 1965)
Công tác tuyên giáo tập trung tuyên truyền, vận động, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nhiều điển hình xuất sắc xuất hiện trong phong trào quần chúng đã trở thành ngọn cờ cổ vũ phong trào thi đua như: Gió Đại Phong, Sóng Duyên Hải, Tiếng trống Bắc Lý, Cờ Ba nhất …
Trong những năm 1960 - 1964, Nhân dân miền Nam đã đồng khởi nổi dậy và đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, công tác tư tưởng đã luôn chú trọng tới việc quán triệt phương hướng, nhiệm vụ, phương châm đấu tranh trong tình hình mới; coi trọng việc phổ biến những kinh nghiệm thực tiễn; đồng thời tích cực tham mưu, đề xuất Đảng, Nhà nước phát động phong trào thi đua “Dũng sĩ diệt Mỹ”, nâng cao quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
c) Miền Bắc vừa xây dựng vừa chiến đấu, chi viện cho miền Nam, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà (giai đoạn 1965 - 1975)
Với mục tiêu đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, công tác tuyên giáo đã góp phần quan trọng trong việc động viên quân dân miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời chiến, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam. Các phong trào văn hóa - văn nghệ phát triển mạnh; công tác xây dựng Đảng về tư tưởng kịp thời chuyển hướng để bảo đảm yêu cầu lãnh đạo quân dân ta thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc: tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đảng viên, học tập kết hợp chặt chẽ với phê bình và tự phê bình, phát huy tính tiền phong, gương mẫu; công tác tuyên truyền đối ngoại được tăng cường, tích cực tranh thủ các diễn đàn quốc tế, th ông qua các hoạt động ngoại giao, nêu cao tính chính nghĩa cuộc đấu tranh của Nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thành công của công tác tuyên giáo giai đoạn này là tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, động viên đồng bào, chiến sĩ cả nước hăng hái lao động, sản xuất, chiến đấu. Miền Bắc, công tác tuyên giáo tập trung tuyên truyền, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, như “Vì miền Nam ruột thịt”, “Thanhniên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, động viên lớp lớp thanh niên hăng hái lên đường đánh giặc với tinh thần “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Với miền Trung, tập trung tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước và truyền thống cách mạng, tất cả một lòng "Xe cho qua, nhà không tiếc; Đường cho thông, không tiếc máu xương”. Ở miền Nam, công tác tuyên giáo đã cổ vũ quần chúng đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang ở khắp mọi nơi, trên cả ba vùng: vùng núi, đồng bằng và đô thị; khơi dậy lòng căm thù giặc, bồi dưỡng lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm, không quản ngại hy sinh, tạo nên nhiều phong trào thi đua giết giặc, lập công: “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”, “Xuống đường đòi tự do, dân chủ”, “Hát cho đồng bào tôi nghe”… Sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Việt Nam đã được chuyển hóa bằng thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã lãnh đạo công tác tuyên giáo thực hiện cuộc vận động chính trị nhằm quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước của toàn dân tộc, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Công tác tuyên giáo đã thành công trong việc bồi dưỡng ý chí quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
4. Công tác tuyên giáo trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (giai đoạn 1975 - 2023)
a) Thời kỳ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế (giai đoạn 1975 - 1985)
Đất nước vừa trải qua 30 năm chiến tranh, phải đối phó với các cuộc chiến tranh biên giới, bị đế quốc Mỹ và các thế lực đế quốc bao vây cấm vận, kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng kéo dài, đời sống Nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh đó, công tác tuyên giáo đã tập trung động viên các tầng lớp Nhân dân nêu cao ý chí khắc phục khó khăn, quyết tâm vượt qua thử thách, nhanh chóng thực hiện thống nhất đất nước; cổ vũ khí thế phấn đấu nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu quan trọng của đất nước, tạo điều kiện cho các bước phát triển tiếp theo. Đặc biệt là qua thực tiễn, đã từng bước chuẩn bị lý luận cho công cuộc đổi mới đất nước.
b) Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế (giai đoạn 1986 - 2023)
Tại Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Kể từ đó đến nay đã hơn 35 năm, nhiệm vụ, chức năng là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng, tham mưu giúp các cấp ủy đảng trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, về chủ trương, quan điểm và chính sách của Đảng trong lĩnh vực tuyên truyền, lý luận chính trị, lịch sử Đảng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin đối ngoại, khoa giáo; công tác tuyên giáo đã đồng hành cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện sự nghiệp đổi mới và đã đạt được những thắng lợi bước đầu. Sự đóng góp của công tác tuyên giáo được thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực nổi bật, đó là:
- Tạo sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
- Củng cố niềm tin, niềm tự hào về Đảng, về đất nước và con người Việt Nam; nâng cao uy tín và vị thế của đất nước; góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không ngừng chăm lo và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
- Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng môi trường văn hóa, xã hội an toàn, lành mạnh, xây dựng con người mới Việt Nam.
Đặc biệt là trong những năm trở lại đây, công tác tuyên giáo từ Trung ương đến địa phương đã có sự chuyển biến sâu sắc và đạt được những kết quả nổi bật, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, triển khai thực hiện tốt Đại hội XIII của Đảng, của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Cụ thể:
- Công tác tham mưu giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các lĩnh vực công tác tuyên giáo ngày càng chủ động, nhạy bén, sáng tạo, sát với yêu cầu của thực tiễn. Toàn Ngành đã chủ động tham mưu tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương ban hành trong nhiệm kỳ; nghiên cứu, tham mưu có chất lượng nhiều vấn đề quan trọng trên lĩnh vực tuyên giáo, đồng thời phục vụ tích cực cho việc xây dựng, ban hành, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy địa phương để tháo gỡ khó khăn, bất cập cũng như những địnhhướng chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thuộc lĩnh vực tuyên giáo trong tình hình mới.
Việc tham mưu, đề xuất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đặc biệt là việc biểu dương, khen thưởng, tôn vinh các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được quan tâm chỉ đạo thực hiện thường xuyên, liên tục, với nhiều nội dung và cách làm mới, đã tạo sức lan toả sâu rộng trong xã hội, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và Nhân dân thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị.
- Công tác giáo dục lịch sử, truyền thống, đạo đức, lối sống trong các trường phổ thông; công tác lý luận, giáo dục chính trị tư tưởng, nhất là giáo dục chính trị trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề được chú trọng, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảngtrong sạch, vững mạnh. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn được chủ động triển khai, ngày càng nền nếp, bài bản hơn. Công tác triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các Nghị quyết của Trung ương có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức. Việc tổ chức học tập, quán triệt triển khai thực hiện các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4, 5, 6,7 khóa XIII được đổi mới từ chỗ học tập, quán triệt bằng hình thức trực tiếp thì nay được kết hợp phương pháp trực tuyến với nội dung ngắn gọn, súc tích, giúp cho cán bộ, đảng viên nắm vững, hiểu rõ những nội dung cơ bản, cốt lõi của các nghị quyết; thời gian tổ chức sớm hơn, nội dung thảo luận, chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết khả thi hơn, sát hợp hơn với thực tế địa phương, đơn vị.
Toàn Ngành đã chú trọng tìm tòi, đổi mới nội dung và phương thức tham mưu về công tác lý luận chính trị; tập trung chỉ đạo, định hướng các cơ quan, đơn vị chức năng nghiên cứu một số vấn đề về đường lối, chính sách, phương thức lãnh đạo, thực hiện dân chủ trong Đảng; khẳng định và làm rõ một số giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống yêu nước tiếp tục được coi trọng và tăng cường, từng bước được đổi mới, đa dạng về nội dung và phương thức. Công tác giáo dục lịch sử, truyền thống và nghiên cứu, biên soạn và xuất bản sách lịch sử Đảng được cấp ủy các cấp quan tâm triển khai.
- Công tác thông tin tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội có nhiều đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra của thực tiễn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng tuyên truyền được coi trọng, tập trung chỉ đạo sâu sát, kịpthời. Công tác thông tin, tuyên truyền, quán triệt, triển khai các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước không ngừng đổi mới theo hướng chủ động, sáng tạo, hiệu quả; cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và Nhân dân tích cực thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử quan trọng; tuyên truyền kinh tế - xã hội; tuyên truyền quốc phòng, an ninh có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức tạo sức lan tỏa trong xã hội. Công tác tuyên truyền miệng và hoạt động báo cáo viên cũng đã được ban tuyên giáo các cấp chú trọng và thực hiện có hiệu quả. Công tác chỉ đạo, định hướng tuyên truyền trên internet, mạng xã hội được quan tâm. Việc chỉ đạo, định hướng thông tin tuyên truyền trên báo chí được đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, từng bước tạo lập môi trường thông tin trong sạch, lành mạnh trên báo chí và trên không gian mạng. Công tác sắp xếp, quy hoạch báo chí được thực hiện đồng bộ với nhiều phương pháp hiệu quả. Công tác nắm bắt, điều tra, nghiên cứu dư luận xã hội từng bước được đổi mới theo hướng chủ động, sớm và sát thực tiễn hơn; nhất là trước các vấn đề phức tạp, nhạy cảm mà đông đảo Nhân dân quan tâm.
Việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa - văn nghệ bám sát nhiệm vụ chính trị, đúng định hướng, nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực, đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa tinh thần của Nhân dân, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước và từng địa phương.
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại đạt được nhiều kết quả tích cực, ngày càng đi vào chiều sâu; thông tin về thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế- văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đường lối đối ngoại; quảng bá văn hóa, hình ảnh Việt Nam ra thế giới; về quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam; các vấn đề chủ quyền biên giới lãnh thổ, vấn đề Biển Đông, tôn giáo, dân tộc, dân chủ nhân quyền... được tăng cường.
- Công tác tham mưu trên các lĩnh vực khoa giáo ngày càng chủ động, có nhiều chuyển biến quan trọng. Ngành Tuyên giáo đã tập trung chỉ đạo, định hướng chính trị trong triển khai các nội dung, nhiệm vụ công tác khoa giáo như: đổi mới giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ; ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường; phòng chống thiên tai, dịch bệnh; phát triển y tế, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, bình đẳng giới. Chủ động tham mưu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nghị quyết chỉ thị, nghị quyết này trong tình hình mới.
- Công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu, quan điểm sai trái, thù địch có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trênlĩnh vực tư tưởng, văn hóa có chuyển biến tích cực, rõ nét hơn so với trước; nhất là việc ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin xấu độc, phản bác quan điểm sai trái thù địch, xuyên tạc trên Internet, mạng xã hội và tăng cường cung cấp thông tin chính thống, tổ chức đối thoại, định hướng thông tin trước những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm mà cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm.
III. NGÀNH TUYÊN GIÁO BÌNH DƯƠNG 74 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
Trước yêu cầu của công tác triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị gắn với nhiệm vụ đấu tranh vũ trang của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đầu năm 1949, cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ngày càng cam go, quyết liệt, với tình hình của Đảng bộ các tỉnh Nam bộ lúc bấy giờ và yêu cầu mới của công tác xây dựng Đảng, Xứ ủy Nam bộ ra chỉ thị cho các tỉnh thành lập các Ban chuyên môn của Tỉnh ủy, gồm: Ban Văn thư, Ban Tài chính và Ban Tuyên huấn. Ngày 10/5/1949, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một ký quyết định thành lập Ban Tuyên huấn do đồng chí Tiêu Như Thủy làm Trưởng ban. Mặc dù trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng ngành Tuyên huấn của Tỉnh ngay từ khi ra đời đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, góp phần động viên tư tưởng, tinh thần quân dân địa phương trong suốt thời kỳ kháng chiến.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngành Tuyên giáo đã sử dụng tổng hợp các phương tiện có thể tác động đến tinh thần, tư tưởng, tình cảm con người để tuyên truyền giác ngộ quần chúng, động viên cán bộ, chiến sĩ, quân và dân tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng, yên tâm, lạc quan chiến đấu. Ngành tuyên - văn - giáo - huấn, đã khơi dậy và xây dựng được chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cán bộ, chiến sĩ và quần chúng cách mạng. Từ đó, ngành đã góp phần tạo nên những chiến công hiển hách gắn liền với tên tuổi các cá nhân, tập thể anh hùng và các địa phương anh hùng. Những chiến công lừng lẫy như Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Bông Trang, Đất Cuốc... có sự đóng góp xứng đáng của ngành Tuyên giáo Đảng bộ Tỉnh. Công tác tuyên giáo là mặt trận không kém phần gian khổ và chịu hy sinh mất mát như trên chiến trường.
Phương pháp công tác của ngành Tuyên giáo trong giai đoạn này là sử dụng mọi phương tiện tuyên truyền huấn luyện trong điều kiện thời chiến để động viên, bồi dưỡng tinh thần và ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên, các lực lượng cách mạng và giác ngộ cho quần chúng. Từ đó, lần lượt các đơn vị công tác chuyên môn đã hình thành và hoạt động như: báo Đảng, đội văn nghệ, đội chiếu phim, cơ quan giáo dục, nhà in... Có thể nói, ngành Tuyên giáo trong kháng chiến là nơi khai sinh ra các cơ quan văn hóa, giáo dục, tuyên truyền, huấn luyện, đào tạo của Đảng bộ, là tiền thân của các ngành văn hóa, giáo dục, báo chí... hiện nay. Hàng trăm cán bộ tuyên - văn - giáo - huấn cách mạng của Thủ Dầu Một đã được Đảng đào tạo và rèn luyện, cống hiến cho cách mạng và kháng chiến. Trong điều kiện chiến tranh, họ vừa nắm chắc tay súng vừa sáng tác thơ văn cách mạng, đàn hát ca diễn trên sân khấu, tổ chức chiếu phim ảnh cách mạng cho đồng bào xem dưới tầm pháo giặc hoặc đứng lớp giảng dạy văn hóa trong điều kiện khó khăn gian khổ của nền giáo dục kháng chiến... Nhiều người đã anh dũng ngã xuống, máu của họ đã đổ trên mọi chiến trường, khi đang đi ca diễn hay lên lớp, lúc đang xếp chữ trong nhà in hay trên đường vận chuyển phát hành báo... Tên tuổi của những liệt sĩ đã ngã xuống chẳng những được ghi vào lịch sử ngành Tuyên giáo của Tỉnh mà còn xứng đáng được ghi vào lịch sử Đảng bộ Tỉnh.
Công tác tuyên giáo đã bám sát nhiệm vụ lãnh đạo hai cuộc kháng chiến của Đảng bộ Tỉnh, tùy từng lúc, từng nơi mà tiến hành các nội dung và phương thức hoạt động. Hoạt động tuyên giáo của Tỉnh trong hai cuộc kháng chiến là một phần quan trọng trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng. Đó là một chiến trường luôn sôi động với nhiều nội dung và phương pháp sinh động của cuộc chiến tranh Nhân dân. Các hoạt động tuyên giáo bám sát nhiệm vụ của chiến trường, có lúc phải đi trước để phục vụ cho nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh. Hoạt động tuyên truyền vận động cách mạng góp phần hình thành ba mũi giáp công và ba vùng chiến lược, không chỉ trong các vùng căn cứ, vùng giải phóng mà còn trong các vùng địch tạm chiếm, cả nông thôn và thành thị. Từ buổi đầu tuyên truyền cho nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến đến vận động chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy; từ hình thức, phương tiện tuyên truyền thô sơ đến khi sử dụng kỹ thuật cao; từ buổi đầu tự thân tuyên truyền vận động của cá nhân các đồng chí lãnh đạo, đảng viên đến khi có cơ quan chuyên trách với các đội mũi tinh nhuệ... hoạt động tuyên giáo của Tỉnh đã có những bước tiến dài với nhiều thành tựu quan trọng, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng bộ và tình cảm yêu thương quý trọng của Nhân dân.
Từ sau năm 1975 đến nay, khi cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạt động tuyên giáo của Tỉnh có sự thay đổi về nội dung và phương thức hoạt động.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo cả nước khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, đất nước có thời điểm phải đồng thời đương đầu với các cuộc chiến tranh biên giới và chiến tranh phá hoại nhiều mặt cũng như “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, công tác tuyên giáo trong thời kỳ này thực hiện vai trò đi trước, mở đường. Trong đó, nhiệm vụ chính trị nặng nề nhất là phải bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, những tinh hoa văn hóa thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Trong điều kiện hòa bình và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những bài học kinh nghiệm và mô hình của công tác tuyên giáo thời chiến cần có sự kế thừa và xây dựng phù hợp. Trong thời kỳ mới, thông tin và bùng nổ thông tin vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với công tác tuyên giáo, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chuyên trách tinh nhuệ, phương pháp công tác khoa học, hiện đại và phù hợp.
Những đặc điểm trên thể hiện khá sâu sắc trong lịch sử hoạt động ngành Tuyên giáo của tỉnh Thủ Dầu Một trước đây và tỉnh Sông Bé, Bình Dương sau này.
Từ mảnh đất Sông Bé vốn giàu truyền thống cách mạng, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, ngành Tuyên giáo đã đi trước một bước trong nhiệm vụ tuyên truyền động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng ổn định và xây dựng cuộc sống mới, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ biên giới trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, động viên hàng ngàn con em Nhân dân lên đường trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng một lần nữa lại được khơi dậy và phát huy. Không khí lạc quan, hào hùng luôn sôi động trong lớp lớp thanh niên xung phong, bộ đội, dân quân và Nhân dân trên toàn tuyến biên giới nhiều chông gai, lửa đạn. Nhân dân các địa phương hăng hái thực hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà nước, xây dựng hậu phương vững mạnh cho vùng biên giới. Công lao của ngành Tuyên giáo là đã giúp cho Đảng bộ tạo được một niềm tin và động lực tinh thần, tư tưởng vững mạnh trong nội bộ và Nhân dân. Chính nhân tố quan trọng này là ngọn nguồn sức mạnh để sau đó Đảng bộ phát động và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước.
Khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới tư duy và đổi mới toàn diện do Đảng lãnh đạo, ngành Tuyên giáo Bình Dương đã cùng với ngành Tuyên giáo cả nước phát huy vai trò xung kích trong việc tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các nhận thức mới về các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước và chủ nghĩa xã hội. Nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, nhất là sự hình thành hàng loạt các doanh nghiệp của nhiều thành phần kinh tế và sự xuất hiện hàng trăm trang trại, nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi trọc. Quê hương Sông Bé - Bình Dương thay da đổi thịt từng ngày; đời sống văn hóa tinh thần địa phương ngày càng chuyển biến mạnh mẽ theo hướng lạc quan tin tưởng hơn vào Đảng, vào cách mạng, vào tiền đồ của đất nước. Tất cả những thành tựu đó đã tạo nên bước phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, cả về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Sự kiện thành lập tỉnh Bình Dương vào năm 1997 càng thúc đẩy sự phát triển tiến lên của địa phương, ngành tuyên giáo Bình Dương cũng bước vào một giai đoạn mới. Nội dung hoạt động quan trọng nhất của ngành Tuyên giáo tỉnh Bình Dương trong giai đoạn này là là vận động toàn Đảng bộ và quần chúng năng động, sáng tạo, tận dụng các cơ hội, khơi dậy, tập hợp và phát huy các nguồn lực phát triển để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại nên trên địa bàn Tỉnh. Mục tiêu là nhanh chóng đưa công nghiệp và dịch vụ đô thị ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Các nội dung công tác khác thuộc lĩnh vực tư tưởng, lý luận và đường lối cũng được Ngành tập trung thực hiện nhằm chống tư tưởng đa nguyên, đa đảng, bảo vệ đoàn kết, kỷ cương, dân chủ trong nội bộ Đảng, từng bước xây dựng nếp sống văn hóa tinh thần của toàn xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuộc sống văn minh, no ấm, dân chủ, lạc quan ngày càng tỏa sắc khắp mọi nhà, mọi người. Những thành tựu sinh động và thiết thực, cả về vật chất và tinh thần đó có phần đóng góp không nhỏ của ngành Tuyên giáo.
Đặc biệt, giai đoạn 2015 -2023, bám sát sự chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy, ngành tuyên giáo của tỉnh đã chủ động, tích cực tham mưu cho cấp ủy các cấp đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tình hình mới. Công tác tuyên giáo được triển khai toàn diện, đồng bộ, bám sát thực tiễn, phục vụ hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, củng cố niềm tin, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ, sự đồng thuận trong các tầng lớp Nhân dân. Nâng cao chất lượng, kỷ cương trong việc học tập, quán triệt, triển khai, sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng, có trọng tâm, trọng điểm và đi vào chiều sâu. Kịp thời nắm bắt dư luận xã hội, những thông tin quan trọng phản ánh, đề xuất, kiến nghị với cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung chỉ đạo, giải quyết. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên tiến trong việc học tập và làm theo lời Bác. Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã thực hiện tốt Quy định về Nêu gương; Quy định lãnh đạo các cấp thực hiện đối thoại trực tiếp với Nhân dân; ký kết Chương trình phối hợp giữa Ban Tuyên giáo cấp ủy với cơ quan Nhà nước cùng cấp triển khai thực hiện theo Quy chế 238 của Ban Bí thư, tạo không khí dân chủ, đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân. Hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 tỉnh đạt hiệu quả tích cực góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Công tác khoa giáo, lịch sử Đảng, chất lượng giảng dạy, học tập tại Trường Chính trị, các trung tâm chính trị cấp huyện được nâng cao..., góp phần quan trọng tạo sự ổn định chính trị, thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh...
IV. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM CỦA NGÀNH TUYÊN GIÁO TRONG THỜI GIAN TỚI
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ mà Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao, công tác Tuyên giáo trong thời gian tới tập trung vào các nhiệm vụ và giải pháp căn bản sau đây:
(1) Chủ động bám sát, dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, thực hiện tốt chức năng định hướng chính trị, tư tưởng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, quan tâm phát hiện những điểm mới trong đời sống xã hội, nâng cao chất lượng tham mưu các cấp ủy đảng trong từng lĩnh vực công tác tuyên giáo.
(2) Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng; nâng cao chất lượng việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng theo hướng thiết thực, hiệu quả, khả thi. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc tổ chức học tập, quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng.
(3) Đẩy mạnh tuyên truyền công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII gắn với việc triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và việc nêu gương của cán bộ, đảng viên ở các cấp. Động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt việc tốt, các nhân tố tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội gắn với thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị.
(4) Tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực bằng nhiều hình thức đổi mới, nhất là trên các phương tiện báo chí và truyền thông nhằm góp phần tạo sự tự giác, thống nhất cao về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
(5) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tuyên giáo; lấy cơ sở lý luận và thực tiễn để tăng khoa học, tính chiến đấu, tính thuyết phục của công tác tuyên giáo. Bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo theo kế hoạch chung của toàn Ngành, phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của tuyên giáo các cấp, các lĩnh vực, các địa phương. Tăng cường sự phối hợp giữa ban tuyên giáo các cấp với cơ quan nhà nước trong việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, giải quyết các vấn đề bức xúc của Nhân dân.
(6) Nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, nhất là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Từ đó, chủ động dự báo tình hình, lên các phương án kế hoạch công tác tư tưởng, không để bùng phát thành “điểm nóng”.
(7) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các giải pháp có tính khả thi để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện đạt các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ XI đã đề ra; tạo không khí phấn khởi, đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, đồng thuận trong xã hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội năm 2023.
(8) Đổi mới sâu sắc, quyết liệt hơn nữa công tác định hướng chính trị, tư tưởng trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ; thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại; chú trọng công tác tham mưu thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, khoa học, công nghệ, y tế, thể dục, thể thao, dân số, gia đình, trẻ em..; góp phần đắc lực vào việc nâng cao chất lượng nguồn lực con người và tiềm lực khoa học, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
(9) Chỉ đạo quyết liệt công tác đấu tranh tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số 35- NQ/TW ngày 22/10/2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
(10) Tổ chức đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp, dự kiến nhu cầu, chủ động tạo nguồn và triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển đội ngũ, tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 39- NQ/TW của Bộ Chính trị “về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức” và Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
93 năm qua, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, công tác tuyên giáo đã có những cống hiến xuất sắc và trưởng thành vượt bậc qua các thời kỳ lịch sử cách mạng, là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và nhất là thế hệ những cán bộ đã và đang công tác trong ngành Tuyên giáo. Kỷ niệm 93 năm Ngày truyền thống của ngành Tuyên giáo là dịp để chúng ta cùng ôn lại và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của ngành Tuyên giáo; bồi đắp thêm niềm tự hào về những đóng góp to lớn, có ý nghĩa lịch sử của ngành Tuyên giáo trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; củng cố và tăng cường niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, đây cũng là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động ngành Tuyên giáo ra sức phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị, biểu thị quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY
Đánh giá bài viết:
-
Cô Phạm Thị Tiền – người cán bộ tận tâm với công tác khuyến học
08:43 20-11-2024 -
Thượng tướng Võ Minh Lương - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dự ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại khu phố Rạch Bắp, phường An Tây
08:21 16-11-2024 -
Tập huấn chính sách, pháp luật về hỗ trợ cai nghiện ma túy và công tác phòng, chống mại dâm
03:20 14-11-2024 -
Đưa chính sách BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình đến với người dân trên địa bàn phường Mỹ Phước.
08:15 12-11-2024 -
Lễ phát động hưởng ứng ngày Pháp luật Việt Nam (9/11)
10:10 09-11-2024